Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm nhẹ trong bối cảnh giới đầu tư nghi ngờ tính hiệu quả của việc mở kho dự trữ dầu do Mỹ kêu gọi và dự đoán phản ứng từ các nước sản xuất dầu.
Kết thúc phiên này, dầu Brent giảm 6 US cent hay 0,07% xuống 82,25 USD/thùng, trong khi dầu WTI giảm 11 US cent hay 0,14% xuống 78,39 USD/thùng.
Thị trường hiện đang hướng sự chú ý đến phản ứng của OPEC+ với động thái trên của Mỹ và các nước khác. Nhóm này dự kiến sẽ có cuộc họp chính sách vào tuần tới.
Mỹ cho biết sẽ xuất hàng triệu thùng dầu từ kho dự trữ chiến lược và sẽ phối hợp với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Anh, nhằm nỗ lực hạ nhiệt giá dầu sau khi Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, không hưởng ứng lời kêu gọi gia tăng sản lượng hơn nữa. Tuy nhiên, giới phân tích cho rằng biện pháp trên có thể chỉ có tác động trong ngắn hạn, do sự thiếu đầu tư vào sản xuất dầu suốt nhiều năm qua và sự phục hồi mạnh mẽ trên toàn cầu từ đại dịch COVID-19. Các chuyên gia của ngân hàng Goldman Sachs cho biết biện pháp phối hợp nói trên có thể tăng nguồn cung dầu thô thêm khoảng 70-80 triệu thùng, ít hơn mức hơn 100 triệu thùng theo dự đoán của thị trường.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu thô dự trữ của Mỹ đã tăng 1 triệu thùng trong tuần trước, trái ngược với dự đoán giảm 481.000 thùng của giới phân tích. Nhưng lượng dầu thô dự trữ trong Kho Dự trữ chiến lược của nước này lại giảm xuống còn 604,5 triệu thùng trong tuần trước, mức thấp nhất kể từ tháng 6/2003.
Số giàn khoan dầu hoạt động của Mỹ đã tăng 6 giàn trong tuần này lên 467 giàn, mức cao nhất kể từ tháng 4/2020, do giá dầu cao đã thu hút nhiều công ty khai thác trở lại. Bên cạnh đó, giá dầu còn bị ảnh hưởng bởi số ca nhiễm COVID-19 đang tăng cao và phá vỡ các con số kỷ lục trước đó ở nhiều nơi của châu Âu, khiến nhiều nước phải tái áp đặt các biện pháp hạn chế đi lại.
Giá than luyện cốc của Trung Quốc tăng hơn 13% bởi tâm lý đang cải thiện trên thị trường bất động sản và dự đoán nhu cầu sản xuất thép của các nhà máy tăng mặc dù các nhà phân tích cảnh báo thị trường vẫn còn nhiều rủi ro cao.
Các cơ quan quản lý tài chính đã yêu cầu một số ngân hàng cấp thêm khoản vay cho các công ty bất động sản để phát triển dự án, trong bối cảnh nỗ lực giảm nhẹ căng thẳng thanh khoản trong ngành này.
Than luyện cốc trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên kỳ hạn tháng 1/2022 có lúc tăng 13,5% lên 2.170 CNY (339,71 USD)/tấn, kết thúc phiên tăng 12,4% lên 2.149 CNY/tấn; than cốc tăng 4,8% lên 3.050 CNY/tấn khi đóng cửa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao ngay giảm xuống mức thấp nhất trong 3 tuần do số liệu kinh tế của Mỹ mạnh mẽ hỗ trợ USD và lợi suất trái phiếu kho bạc, cùng với lo lắng về Fed có thể tăng lãi suất sớm hơn dự kiến cũng bổ sung tâm lý thất vọng.
Cuối phiên này, vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 1.783,18 USD/ounce sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 4/11, là 1.777,8 USD/ounce trong phiên này; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 12 đóng cửa ổn định tại 1.784,3 USD/ounce.
Thị trường vàng bị áp lực giảm bởi những lo ngại Fed có thể bắt đầu tăng cường giảm kích thích hay tăng lãi suất với tốc độ nhanh hơn so với dự kiến trước đó. Lãi suất cao làm tăng chi phí giữ vàng. Ngoài ra số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu của Mỹ giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 1969 và một báo cáo khác cho thấy tăng trưởng kinh tế ở tốc độ 2,1%.
Bộ Lao động Mỹ thông báo 199.000 đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu trong tuần qua (kết thúc ngày 20/11), mức thấp nhất kể từ năm 1969. Thâm hụt thương mại hàng hóa của nền kinh tế số một thế giới trong tháng 10 giảm 14,6% xuống còn 82,9 tỷ USD; chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân, một thước đo lạm phát của Mỹ, tăng 0,6% trong tháng 10.
Biên bản cuộc họp của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố sau khi thị trường đóng cửa cho thấy một số quan chức Fed cho rằng thời gian kéo lạm phát xuống có thể sẽ lâu hơn dự tính và Fed đẩy nhanh tốc độ mua trái phiếu được đưa ra trong cuộc họp tháng 11.
Thị trường Mỹ sẽ đóng cửa ngày 25/11 nghỉ lễ Tạ ơn.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2021 tăng 6,1 US cent (0,26%) lên 23,496 USD/ounce; bạch kim giao tháng 1/2022 tăng 11,1 USD (1,15%) lên 975,3 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng lên mức cao nhất trong một tháng và các kim loại công nghiệp khác cũng tăng sau khi Trung Quốc thông báo các biện pháp hỗ trợ lĩnh vực bất động sản. Bên cạnh đó, giá tăng cũng bởi tồn kho hầu hết các kim loại ở sàn giao dịch London giảm và các hợp đồng giao kim loại trong thời gian gần có giá cao hơn kỳ hạn xa.
Giá đồng trên sàn LME kết thúc phiên này tăng 0,9% lên 9.797 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 26/10 tại 9.880 USD/tấn. Kim loại này tăng khoảng 25% trong năm nay sau khi tăng 26% trong năm 2020, mặc dù đã mất đà trong những tháng gần đây do tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Trong tuần này,các quan chức Trung Quốc cho biết họ sẽ tăng cường hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp để hỗ trợ nền kinh tế đang chậm lại.
Về các kim loại công nghiệp khác, giá thiếc tăng 2,9% lên 40.010 USD/tấn trong phiên giá đã chạm mức cao kỷ lục 40.300 USD/tấn. Indonesia có thể dừng xuất khẩu thiếc trong năm 2024 như một phần nỗ lực thu hút đầu tư trong ngành chế biến tài nguyên.
Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe xuất sang Trung Quốc tăng 2 USD lên 97,5 USD/tấn trong ngày 23/11, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome. Thép thanh tại Thượng Hải tăng 3,2% lên 4.502 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng tăng 3,2% lên 4.599 CNY/tấn và thép không gỉ tăng 3,6% lên 18,145 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì Mỹ giảm khỏi mức cao nhất nhiều năm, ngô và đậu tương cũng giảm do chốt lời và thanh lý trước đợt nghỉ Lễ Tạ ơn. USD mạnh lên cũng bổ sung áp lực giảm, nhưng sự sụt giảm của ngô và đậu tương ít đi bởi những dấu hiệu nhu cầu xuất khẩu đã cải thiện.
Cụ thể, giá lúa mì kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn Chicago giảm 17-1/4 US cent xuống 8,5-1/4 USD/bushel sau khi đạt mức cao 8,74-3/4 USD/bushel cũng trong phiên này; giá ngô giao cùng kỳ hạn giảm 2-3/4 US cent xuống 5,85-1/2 USD/bushel, giảm từ mức cao gần 5 tháng tại 5,96-3/4 USD trước đó trong phiên này; giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2022 giảm 6-1/2 US cent xuống 12,66-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 đóng cửa giảm 0,9% xuống 19,93 US cent sau khi tăng 1,4% trong phiên trước đó; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2022 giảm 1,2% xuống 511,2 USD/tấn.
Các nhà máy đường ở khu vực trung nam Brazil đã sản xuất 626.000 tấn đường trong nửa đầu tháng 11, ít hơn 49,7% so với cùng kỳ năm trước. Khối lượng này vẫn cao hơn dự đoán của thị trường. Ngân hàng Citi đã nâng dự báo giá trung bình năm 2022 từ 19,5 US cent/lb lên 20,3 US cent/lb do thị trường vẫn khan hiếm kéo dài tới năm niên vụ 2022/23.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE tăng lên mức cao mới trong 10 năm. Chốt phiên cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2022 tăng 1,4% lên 2,4540 USD/lb, trước đó trong phiên giá đã đạt 2,4755 USD/lb, cao nhất kể từ tháng 10/2011; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2022 giảm 0,7% xuống 2.281 USD/tấn, trong phiên trước đó giá đã lên mức cao nhất kể từ tháng 8/2011.
Họa động giao dịch trên thị trường vẫn bị cản trở bởi lo lắng về tình trạng thiếu hụt container vận chuyển tại Brazil, lo ngại về nông dân không giao hàng tại các quốc gia sản xuất quan trọng và dự trữ của sàn ICE giảm.
Giá cao su của Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong 6 tháng, bởi hy vọng ngày càng tăng rằng sản lượng ô tô sẽ phục hồi sau khi sụt giảm do tình trạng thiếu vi mạch. Đồng JPY suy yếu so với USD cũng hỗ trợ giá cao su.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2022 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 9,4 JPY lên 247,8 JPY (2,2 USD)/kg. Giá đã đạt mức cao nhất kể từ ngày 31/5 tại 254,5 JPY trong phiên giao dịch này; cao su kỳ hạn tháng 1/2022 tại sàn giao dịch Thượng Hải tăng 75 CNY lên 15.685 CNY (2.456 USD)/tấn.
Jiong Gu, một nhà phân tích tại công ty Yutaka Shoji cho biết dự đoán các nhà sản xuất ô tô sẽ tăng cường sản xuất từ tháng 12 hay đầu năm tới sẽ hỗ trợ giá cao su.
USD tăng lên mức đỉnh 4,5 năm so với đồng JPY khiến giá cao su rẻ hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa |
ĐVT |
Giá |
+/- |
+/- (%) |
Dầu thô WTI |
USD/thùng |
78,28 |
-0,11 |
-0,14% |
Dầu Brent |
USD/thùng |
82,21 |
-0,04 |
-0,05% |
Dầu thô TOCOM |
JPY/kl |
51.920,00 |
+360,00 |
+0,70% |
Khí thiên nhiên |
USD/mBtu |
5,07 |
+0,00 |
+0,02% |
Xăng RBOB FUT |
US cent/gallon |
231,47 |
-0,50 |
-0,22% |
Dầu đốt |
US cent/gallon |
237,46 |
-0,84 |
-0,35% |
Dầu khí |
USD/tấn |
688,75 |
-5,50 |
-0,79% |
Dầu lửa TOCOM |
JPY/kl |
72.680,00 |
+90,00 |
+0,12% |
Vàng New York |
USD/ounce |
1.795,70 |
+8,80 |
+0,49% |
Vàng TOCOM |
JPY/g |
6.646,00 |
+24,00 |
+0,36% |
Bạc New York |
USD/ounce |
23,74 |
+0,20 |
+0,85% |
Bạc TOCOM |
JPY/g |
87,60 |
+0,70 |
+0,81% |
Bạch kim |
USD/ounce |
990,17 |
+10,65 |
+1,09% |
Palađi |
USD/ounce |
1.876,00 |
+22,30 |
+1,20% |
Đồng New York |
US cent/lb |
447,90 |
+0,85 |
+0,19% |
Đồng LME |
USD/tấn |
9.835,00 |
+124,50 |
+1,28% |
Nhôm LME |
USD/tấn |
2.704,00 |
+35,50 |
+1,33% |
Kẽm LME |
USD/tấn |
3.322,00 |
+21,00 |
+0,64% |
Thiếc LME |
USD/tấn |
39.960,00 |
+1.090,00 |
+2,80% |
Ngô |
US cent/bushel |
585,50 |
-2,75 |
-0,47% |
Lúa mì CBOT |
US cent/bushel |
850,25 |
-17,25 |
-1,99% |
Lúa mạch |
US cent/bushel |
750,25 |
+5,00 |
+0,67% |
Gạo thô |
USD/cwt |
14,46 |
+0,05 |
+0,31% |
Đậu tương |
US cent/bushel |
1.266,50 |
-6,50 |
-0,51% |
Khô đậu tương |
USD/tấn |
350,90 |
-5,20 |
-1,46% |
Dầu đậu tương |
US cent/lb |
60,70 |
+0,62 |
+1,03% |
Hạt cải WCE |
CAD/tấn |
996,30 |
-3,10 |
-0,31% |
Cacao Mỹ |
USD/tấn |
2.512,00 |
-56,00 |
-2,18% |
Cà phê Mỹ |
US cent/lb |
245,40 |
+3,35 |
+1,38% |
Đường thô |
US cent/lb |
19,93 |
-0,18 |
-0,90% |
Nước cam cô đặc đông lạnh |
US cent/lb |
128,45 |
-1,70 |
-1,31% |
Bông |
US cent/lb |
115,78 |
+0,12 |
+0,10% |
Lông cừu (SFE) |
US cent/kg |
-- |
-- |
-- |
Gỗ xẻ |
USD/1000 board feet |
791,50 |
+12,10 |
+1,55% |
Cao su TOCOM |
JPY/kg |
181,90 |
+1,10 |
+0,61% |
Ethanol CME |
USD/gallon |
2,21 |
0,00 |
0,00% |
Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters)